|
|
|
|
|
 |
Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu ( 1888-1939 )
|
Khác với những thi sĩ tiền chiến Việt Nam là những người của đầu thế kỷ hai mươi, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu ( 1888-1939 ), là người của hai thế kỷ. Bút hiệu Tản Đà được tiên sinh chọn từ tên tắt của
núi Tản-viên
và
sông Đà-giang, vốn là quê hương của tiên sinh.
Là người tiên phong trong thi đàn Việt Nam, Tản Đà tuy có một nét thơ “phóng túng riêng” nhưng vẫn “c̣n giữ được của thời trước cái cốt cách vững vàng, cái phong thái thung dung... Tiên sinh đă đi qua giữa cái hỗn độn của xă hội Việt Nam đầu thế kỷ hai mươi với tấm ḷng b́nh thản của một người thời trước. Những nỗi chật vật của cuộc sống hàng ngày, những cảnh đời éo le thường phô bày ra trước mắt, không từng làm bợn được linh hồn cao khiết của tiên sinh. Cái dáng điệu ngang tàng thường được thấy ở các nhà thơ xưa, ở tiên sinh không bao giờ có vẻ vay mượn. Cái buồn chán của tiên sinh cũng là cái buồn chán của một người trượng phu. Thở than có, nhưng không bao giờ rên rỉ” (Thi Nhân Việt Nam, 1988, trang 14).
Nhân dịp Xuân về, chúng tôi xin cống hiến quư vị một bài thơ xuân chúng tôi sưu tầm được. Bài thơ này tiên sinh viết khi tiên sinh được năm mươi tuổi, một năm trước khi tiên sinh mất. Nào, xin mời quư vị hăy cùng chúng tôi thưởng lăm
"Gặp Xuân" với Tản Đà.
 |
Gặp Xuân
(Tản Đà)
|
Gặp xuân ta giữ xuân chơi
Câu thơ chén rượu là nơi đi về
Hết xuân, cạn chén, xuân về
Ngh́n thu nét mực thơ đề vẫn xuân.
Xuân ơi, xuân hỡi
Vắng xuân lâu, ta vẫn đợi chờ mong
Trải bao nhiêu ngày, tháng, hạ, thu, đông
Ṛng ră nỗi nhớ nhung xuân có biết
Khứ tuế, xuân quy, sầu cửu biệt
Kim niên, xuân đáo, khách tương phùng1
Gặp ta nay, xuân chớ lạ lùng
Tóc có khác, trong ḷng ta chẳng khác
Kể từ thuở biết xuân bốn chín năm về trước
Vẫn rượu thơ non nước thú làm vui
Đến xuân nay ta tuổi đă năm mươi
Tính trăm tuổi đời người ta có nửa
C̣n sau nữa, lại bao nhiêu xuân nữa
Mặc trời cho ta chửa hỏi làm chi
Sẵn rượu đào, xuân uống với ta đi
Cho quen biết kể ǵ ai chủ khách
Thiên cổ vị văn song Lư Bạch
Nhất niên hà đắc lưỡng đông quân2
Dẫu trăm năm gặp gỡ đủ trăm lần
Thơ với rượu cùng xuân ta cứ thế
Ngoài trăm tuổi vắng ta trong trần thế
Xuân nhớ ta chưa dễ biết đâu t́m
Cùng nhau nay hăy uống thêm.
1
Năm ngoái xuân về, ta buồn v́ phải xa cách lâu
Năm nay xuân đến, ta vui mừng lại được cùng gặp.
2
Từ ngàn xưa chưa hề nghe nói có hai ông Lư Bạch
Một năm sao mà có được những hai chúa Xuân.
|
| |
|
 |
Vũ Đ́nh Liên ( 1913-1996 )
|
Vũ Đ́nh Liên sinh quán ở Hà Nội, học
ở trường Bảo Hộ và trường Luật. Ngoài các nghề dậy học, quản lư tờ báo Tinh Hoa,
chủ trương tờ Revue Pédagogique, tham tá Thương Chính Hà Nội; ông c̣n viết văn
và làm thơ. Thơ của ông được đăng trên các tờ Phong Hoá, Loa, Phụ Nữ Thời Đàm,
và Tinh Hoa.
Nhà thơ tiền chiến Vũ Đ́nh Liên qua đời ngày 20-1-1996 tại Việt Nam, để lại một kiệt tác bất hủ với thời
gian, đó là bài thơ “ Ông Đồ”
được sáng tác trước năm 1937 là năm ông giă từ thi đàn (năm đó ông mới 24 tuổi).
Có lần, để giải thích cho việc từ giă thi đàn ở tuổi c̣n quá trẻ, trong một bức
thư đề ngày 9-1-1941 gởi cho Hoài Thanh và Hoài Chân, đồng tác giả quyển Thi
Nhân Việt Nam, Vũ Đ́nh Liên đă viết, “Tôi
bao giờ cũng có cái cảm tưởng là không đạt được ư thơ của ḿnh. Cũng v́ không
tin thơ tôi có một chút giá trị nên đă lâu tôi không làm thơ nưă”
(Thi Nhân Việt Nam, 1988, trang 74-75).
Bài thơ
“ Ông Đồ” là một bức
tranh, một bức tranh buồn: buồn cho một thời đại vàng son của nền Nho học Việt
Nam đang tàn lụi mà ông đồ là người tiêu biểu. Cũng trong bức thư đề ngày
9-1-1941 ở trên, Vũ Đ́nh Liên đă viết,
“Ông chính là cái di tích tiều tụy đáng
thương của một thời tàn.”
Mới đây mà đă bẩy mươi năm từ
ngày bài thơ “ Ông Đồ”
lần đầu tiên xuất hiện trên báo Tinh Hoa. Bẩy mươi năm
trôi qua, khoảng thời gian đủ cho một kiếp người trở về với cát bụi, vậy mà đă
bẩy mươi năm cho một bài thơ, một h́nh ảnh cũ của nền Nho học Việt Nam, h́nh ảnh
của Ông Đồ,
vẫn lưu giữ trong tâm trí của biết bao nhiêu người.
Cách đây hơn 64 năm (vào tháng
9 năm 1941), nhà phê b́nh văn học Hoài Thanh đă gọi bài thơ
“ Ông Đồ”
là một
kiệt tác (Thi Nhân Việt Nam, 1988, trang 73). Thời gian cùng những người yêu thơ
đă chứng minh cho nhận xét của Hoài Thanh. Và, mỗi lần Xuân về Tết đến, bài thơ
“Ông Đồ”
của Vũ Đ́nh Liên lại được trân trọng đăng lại trên các báo xuân, như nhắc lại
một áng thơ bất hủ, một bóng h́nh cũ đă từng ngự trị rất lâu trong dĩ văng của
nền Nho học Việt Nam.
 |
Ông Đồ - (Vũ Đ́nh Liên)
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua.
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
“Hoa tay thảo những nét,
Như phượng múa rồng bay.”
Nhưng mỗi năm
mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thấm
Mực đọng trong nghiên sầu...
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài giời mưa bụi bay.
Năm nay hoa đào nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
|
 |
| |
|
 |
Đoàn Văn Cừ ( 1913-2004 )
|
Nhà thơ Đoàn Văn Cừ, hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam - tác giả rất nổi tiếng của những bài thơ viết theo lối miêu tả hiện thực đồng quê, nhất là những bài miêu tả ngày Tết ở miền quê Bắc bộ - đă từ trần lúc 17g15 ngày 27.6.2004 tại quê nhà Nam Định, đại thọ 92 tuổi.
Nhà thơ đă tự nói về ḿnh, về thơ ca: “Ngót 60 năm cầm bút, tôi chỉ có một ước mơ khiêm
tốn: Trong thơ góp một đường cày, Nước non gieo hạt mong ngày nở hoa.”
Theo Hoài Thanh, nhà phê b́nh văn học nổi tiếng Việt Nam trong quyển Thi Nhân Việt Nam, 1988, trang 187-188: "Những h́nh
ảnh cuộc đời Việt Nam xưa c̣n lưu lại trong thời nay chẳng bao lâu sẽ mất hết. Nếu ta không gấp gấp ghi chép th́ rồi chẳng c̣n biết t́m kiếm vào đâu... Những bức tranh trong thơ Đoàn Văn Cừ không phải chỉ đơn sơ vài nét như các bức tranh của Á đông. Bức tranh nào cũng đầy rẫy sự sống và rộn rịp những h́nh sắc tươi vui. Mỗi bức tranh là một thế giới linh hoạt. Người xem tranh hoa mắt v́ những nét những màu h́nh như rối rít cả lại; nhưng nh́n kỹ th́ màu nào nét nào cũng
ngộ nghĩnh vui vui... Và bao giờ những câu cuối của bài thơ đều khép lại một thế giới và mở ra một thế giới: khép một thế giới thực và mở một thế giới mộng. Cảnh trước mắt vừa tan th́ t́nh trong ḷng cũng vừa nhóm. Mắt ta không thấy ǵ nữa nhưng ḷng ta bỗng bâng khuâng.” Và Hoài Thanh bảo: "Nghĩ đến Đoàn Văn Cừ là tôi lại nghĩ đến Tết. Cái tên Đoàn Văn
Cừ trong trí tôi đă lẫn với màu bánh chưng, mùi thuốc pháo, vị mứt gừng. Cứ mỗi lúc Xuân về người lại gửi trên báo một chuỗi cười ngũ sắc. Tiếng cười ta c̣n nghe văng vẳng th́ người
đă biến đâu rồi và ta đành chờ mùa Xuân khác... (Tháng 10 năm 1941)”
Trong ḍng thơ đồng quê VN, Hoài Thanh đă chọn Đoàn Văn Cừ bốn bài, bằng với Anh Thơ và hơn Bàng Bá Lân hai bài với lời nhận xét tinh tế và chính xác: "Nhưng đời sống ở đồng quê
có một nhịp nhàng riêng, thể văn tiểu thuyết không diễn ra được. Phải có thơ. Trong các nhà thơ đồng quê, không ai có ng̣i bút dồi dào mà rực rỡ như Đoàn Văn Cừ..."
Theo báo Lao Động đăng sau ngày nhà thơ mất, “Hoài Thanh bảo ‘Nghĩ đến Đoàn Văn
Cừ là tôi lại nghĩ đến Tết.’ Hỡi ôi, Tết bây giờ đă khác và sẽ khác dù cũng như Hoài Thanh, ‘ta đành
chờ mùa Xuân khác,’ nhưng măi măi không bao giờ c̣n có những bài thơ níu giữ những mùa xuân của làng quê Bắc Việt hay như thế của Đoàn Văn Cừ. Những mùa xuân ấy đă xa xưa và Đoàn Văn Cừ cũng đă vào cơi xa xưa...”
Nhà thơ của Tết, của thôn quê miền Bắc không c̣n nữa, nhưng thơ của ông th́ sống măi theo thời gian. Thơ của ông là những bức tranh, những tài liệu quư giá, sống động, cô đọng nhưng đầy đủ nhất về Tết và những phong tục cổ truyền của những đám hội, đám rước
trong những ngày xuân ở miền Bắc xa xưa. Và cứ mỗi năm khi Xuân về Tết đến, thơ ông lại được trang trọng đăng trên các tờ báo văn học Việt Nam cho người yêu thơ thưởng lăm.
Đoàn Văn Cừ, Nhà Thơ Của Thôn Quê
Thơ tả cảnh, nhất là cảnh Tết ở thôn quê miền Bắc xa xưa của Đoàn Văn Cừ rất gợi thanh, gợi h́nh, gợi sắc, và gợi t́nh, một thứ t́nh chân chất mộc mạc đậm nét thôn quê, tài t́nh đến nỗi nhà phê b́nh văn học khó tính Hoài Thanh đă phải khen “Cảnh trước mắt vừa tan th́ t́nh trong ḷng cũng vừa nhóm. Mắt ta không thấy ǵ nữa nhưng ḷng ta bỗng bâng khuâng.” V́ vậy, người sưu tầm thơ, vốn rất thích thơ và nhân cách Đoàn Văn Cừ, xin giới thiệu sau đây một bài viết của Nguyễn Đức Mậu về Đoàn Văn Cừ, nhà thơ của thôn quê, được đăng trên báo Nhân Dân ở Việt Nam trong dịp Tết Nguyên Đán 2005 vừa qua.
Mỗi năm vào dịp Tết, nhớ nhà thơ của thôn quê
Nhà thơ Đoàn Văn Cừ
Lần cuối cùng, tôi gặp nhà thơ Đoàn Văn Cừ khi ông đă bước sang tuổi 91,
người gầy mảnh, lưng c̣ng, riêng mái tóc vẫn c̣n đen nhánh. Một buổi sáng, ông
đang ngồi trước một xếp phong b́ và một số bài thơ, câu đối.
Ông bảo tôi rằng ông đang chuẩn bị bài cho báo Tết. Ông hay gửi câu đối cho
báo Nhân Dân, Văn Nghệ Quân Đội, thơ
ngắn cho báo Sài G̣n Giải Phóng. Ông hóm hỉnh nói về khoản tiền nhuận
bút: "Báo Tết trả nhuận bút cao, có khi mấy trăm ngh́n đồng một bài thơ. Nếu
tính ra thóc th́ được nhiều lắm. Ḿnh già rồi, lối viết không mới, quư báo nào
chiếu cố th́ in cho ḿnh".
Ở V ăn Nghệ Quân Đội, người
thân thiết với Đoàn Văn Cừ là nhà thơ Vũ Cao. Mỗi năm, cứ vào dịp giáp Tết, nhà thơ Vũ Cao thường nhận được thư chúc Tết và mấy câu thơ cảm tác về mùa xuân của Đoàn Văn Cừ. Những chữ có vẻ cũ như:
Xuân hồng, Xuân chín, Xuân xanh, Xuân tươi... Đoàn Văn Cừ vẫn thường hay dùng.
Vâng, ông là nhà thơ của những sắc mầu. Sắc mầu trong thơ ông dường như càng ngày càng nhiều, dù ông đă có tới hơn 70 năm... cầm bút. Nhiều lúc, tôi có ư
nghĩ ông là người từ rất xa xưa. Xa xưa từ cách nh́n, cách cảm, từ khuôn mặt,
dáng người. Xa xưa từ nét chữ nắn nót, trang nghiêm khuôn thước của một người vốn đă từng là hương sư (thầy giáo làng). Xa xưa từ ḍng địa chỉ ông vẫn quen viết ở cuối thư: Đoàn Văn Cừ, Thảo Lư, Sông Ngọc.
Tôi nhớ như in nét chữ của ông, nhớ cả những lời ông thường hay gửi về ban biên tập: "Kẻ sĩ thờ nước lấy phục vụ đại nghĩa làm lẽ sống, sự nghiệp hiếu trung quên năm tháng làm tuổi thọ... Kính mong tấc thành được ṭa soạn nhiệt t́nh thu nhận và tùy nghi sử dụng vào thời điểm thích hợp..."
Dù là bậc tiền bối nổi tiếng, dù là nhà thơ lăo thành rất đáng kính trọng
nhưng lời lẽ ông viết thật nhũn nhặn, khiêm nhường.
Không ngờ có một buổi sáng, tôi được ngồi trong gian nhà ông, tṛ chuyện cởi
mở cùng ông trong không khí ấm áp thân t́nh. Đoàn Văn Cừ tai nặng, khó nghe nên muốn hỏi ǵ ông tôi phải ghi ra giấy. Tuy nhiên, ông nói chuyện với tôi thật khúc triết, hóm hỉnh, đôi lúc cao hứng ông đọc liền một đoạn văn, đoạn thơ bằng tiếng Pháp, đọc rồi dịch nghĩa.
Đoàn Văn Cừ khoe rằng, hồi trẻ ông là người khá đẹp trai, ông dạy học và làm thơ.
Tôi mạnh dạn hỏi ông về t́nh yêu thời trai trẻ, ông chỉ cười. Ngừng một lát, ông đọc cho tôi nghe chân dung thuở trước ông tự họa về ḿnh:
Anh ấy mày xanh, mắt sáng ngời
Môi hồng má thắm, nụ cười tươi...
Chân dung Đoàn Văn Cừ tự họa cũng mang đầy mầu sắc. Đó là h́nh ảnh Đoàn Văn Cừ năm hai mươi tuổi, một chàng trai, một hương sư. Cũng bằng những câu thơ dễ nhớ, dễ thuộc, Đoàn Văn Cừ phác họa đậm nét h́nh ảnh người mẹ ở nơi thôn dă:
Thúng cắp ngang hông, nón đội đầu
Khuyên vàng, yếm thắm, áo the nâu
Trông u chẳng khác thời con gái
Mắt sáng môi hồng, má đỏ au.
Tôi đọc nhiều câu của Đoàn Văn Cừ tả người, tả cảnh, câu nào cũng như nét vẽ tươi rói, thấm đậm mầu sắc. Làm sao quên được những nét họa tài t́nh ông tả một đám người trong bài Chợ Tết, mỗi người một đường nét chấm phá:
Anh hàng tranh kĩu kịt quẩy đôi bồ
T́m đến chỗ đông người ngồi giở bán
Một thầy khóa g̣ lưng bên cánh phản
Tay mài nghiên hư hoáy viết thơ xuân
Cụ đồ nho dừng lại vuốt râu cằm
Miệng nhẩm đọc vài hàng câu đối đỏ
Bà cụ lăo bán hàng bên miếu cổ
Nước thời gian gội tóc trắng phau phau
Có thể nói Chợ Tết là một bức tranh được vẽ bằng những câu thơ tả chân tài hoa. Những câu thơ nối nhau, cảnh và người, người và cảnh ḥa quyện làm nên một bức vẽ liên hoàn rực rỡ mầu sắc. Đọc thơ ông, tôi ước ḿnh là một họa sĩ tả chân, họa lại những ǵ ông đă viết. Song tôi biết, ḿnh sẽ bất lực và thất bại khi chỉ là người vẽ lại thơ ông, bởi kẻ hậu sinh tôi đâu có được những cảm nhận, rung động như cái thời ông đă sống.
Ngôi nhà ở sông Ngọc "thảo lư" của nhà thơ Đoàn Văn Cừ cũng giống như bao ngôi nhà ở vùng quê miền bắc. Con đường quê vương vương mùi rơm rạ, những hàng tre xanh đong đưa trong gió. Vẳng đâu đây có tiếng vịt gọi đàn trên bờ mương và tiếng gà trưa vọng sang từ nhà hàng xóm.
Khi tôi d́u nhà thơ Đoàn Văn Cừ ra sân chụp ảnh, ông cười, cái cười nhân hậu
pha chút ngậm ngùi: "Tôi già rồi, yếu lắm rồi, sắp sửa đi rồi. Đă già có giấu giếm, có nói dối cũng không được..."
Không ngờ lời ông nói cũng là lời nhắn gửi cuối cùng với chúng tôi. Không ngờ
bức ảnh chụp chung với ông cũng là bức ảnh cuối cùng tôi có được... Đến bây giờ tôi vẫn có cảm giác rằng, Đoàn Văn Cừ như chưa từ giă cơi đời này, ông vẫn c̣n ẩn ḿnh ở một ngôi nhà nào bên sông Ngọc. Rồi mỗi năm vào dịp Tết, trong hàng ngh́n người kéo nhau về cái chợ vùng thôn quê, tôi vẫn thấy thấp thoáng h́nh
bóng ông. NGUYỄN ĐỨC MẬU
************************************
Xin kính mời quư vị hăy cùng chúng tôi thưởng thức sau đây hương vị
Chợ Tết, Tết, Tết Quê Bà, Chơi Xuân, Đám Hội, Đám Cưới Mùa Xuân
và
Đường Về Quê Mẹ
của thôn quê miền Bắc xa xưa (từ Xuân 1941 trở về trước, theo Hoài Thanh trong Thi Nhân Việt Nam) qua thơ Đoàn Văn Cừ.
Trước tiên là bài
“Chợ Tết.”
“Chợ Tết” của Đoàn
Văn Cừ, biết bao h́nh ảnh trong một bức tranh
tổng thể về một phiên chợ Tết ở làng quê Việt Nam. Trẻ nhỏ, người già, các cô thiếu nữ, những chàng trai, mẹ-con, chị-em..., họ nói cười, bày hàng, ngắm nh́n, chọn hàng, trả giá, í ới gọi nhau... Trong phiên chợ ấy hầu như chẳng vắng một ai, không thiếu một màu sắc nào; thậm chí cả “cụ Lư,” một chức sắc của làng quê thời xưa ấy cũng chen chân trong phiên chợ, để đến nỗi “Khăn trên
đầu đương chít cũng bung ra” và
ở đấy c̣n có cả những con trâu, con ḅ, lợn, gà, gạo nếp, cam vàng, tranh Tết... Tất cả ḥa vào nhau tạo nên bức tranh thanh b́nh, yên ả, một bức tranh thơ sống động (Bùi Nguyễn Trường Kiên http://nguoivienxu.vietnamnet.vn/butviet/2005/02/374005)
 |
Chợ Tết - (Đoàn Văn Cừ)
Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi
Sương hồng lam ôm ấp nóc nhà gianh
Trên con đường viền trắng mép đồi xanh
Người các ấp tưng bừng ra chợ Tết
Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc,
Những thằng cu áo đỏ chạy lon ton
Vài cụ già chống gậy bước lom khom
Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ
Thằng em bé nép đầu bên yếm mẹ
Hai người thôn gánh lợn chạy đi đầu
Con ḅ vàng ngộ nghĩnh đuổi theo sau
Sương trắng dỏ đầu cành như giọt sữa
Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa
Núi uốn ḿnh trong chiếc áo the xanh
Đồi thoa son nằm dưới ánh b́nh minh
Người mua bán ra vào đầy cổng chợ
Con trâu đứng vờ dim hai mắt ngủ
Để lắng nghe người khách nói bô bô
Anh hàng tranh kĩu kịt quẩy đôi bồ
T́m đến chỗ đông người ngồi giở bán
Một thầy khóa g̣ lưng trên cánh phản
Tay mài nghiên hí hoáy viết thơ xuân
Cụ đồ nho dừng lại vuốt râu cằm
Miệng nhẩm đọc vài hàng câu
đối đỏ
Bà cụ lăo bán hàng bên miếu cổ
Nước thời gian gội tóc trắng phau phau
Chú hoa man đầu chít chiếc khăn nâu
Ngồi xếp lại đống hàng trên mặt chiếu
Áo cụ Lư bị người chen lấn kéo
Khăn trên đầu đương
chít cũng bung ra
Lũ trẻ con mải ngắm bức tranh gà
Quên cả chị bên đường đang đứng gọi
Mấy cô gái ôm nhau cười rũ rượi
Cạnh anh chàng bán pháo dưới cây đa
Những mẹt cam đỏ chót tựa son pha
Thúng gạo nếp đong đầy như núi tuyết
Con gà sống mào thâm như cục tiết
Một người mua cầm cẳng dốc lên xem...
Chợ tưng bừng như thế đến gần đêm
Khi chuông tối bên chùa văng vẳng đánh
Trên con đường đi các làng hẻo lánh
Những người quê lũ lượt trở ra về
Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê
Lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ...
|
|
 |
Tết (Đoàn Văn Cừ, 1939)
Sáng hôm mồng một Tết
Đèn nến thắp xong rồi
Bà tôi ngồi trong ổ
Mặc áo đỏ cho tôi
Ông tôi vừa thức dậy
Nằm ngó cổ trông ra
Trên ngọn cây đèn bóng
Trời lất phất mưa sa
Giờ lâu tràng pháo chuột
Đ́ đẹt nổ trên hè
Con gà mào đỏ chót
Sợ hăi chạy le te
|
Cây nêu trồng ngoài ngơ
Soi bóng dưới ḷng ao

Chùm khánh sành gặp gió
Kêu lính kính trên cao
Từ khi ông tôi mất
Bà tôi đă qua đời
Tôi mỗi ngày mỗi lớn
Nên chẳng thấy ǵ vui
Tết đến tôi càng khổ
Tôi nhớ bức tranh gà
Chiếc phong bao giấy đỏ
Bánh pháo tép ba xu
|
|
 |
Tết Quê Bà - (Đoàn Văn Cừ, 1941)
Bà tôi ở một túp nhà tre
Có một hàng cau chạy trước hè
Một mảnh vườn bên rào giậu nứa
Xuân về hoa cải nở vàng hoe
Gạo nếp ngày xuân gói bánh chưng
Cả đêm cuối chạp nướng than hồng
Quần đào, áo đỏ, tranh gà lợn
Cơm tám, dưa hành, thịt mỡ đông
|
|
 |
Chơi Xuân - (Đoàn Văn Cừ, 1941)
Ngày xuân trẻ bức tranh gà
Cụ già quần nhiễu đỏ ḷa sang nhau

Đàn ông khăn nhiễu đội đầu
Đôi giày da láng, khăn trầu đỏ loe
Đàn bà yếm đậu vàng hoe
Hàm răng đen nhức, váy lê thẹn thùng
Đám "quay đất" họp đang đông
Tiếng cười nắc nẻ vang trong góc lều
Hiu hiu trời tắt nắng chiều
Chơ xôi trong bếp ph́ phèo lên hơi
Bàn thờ hương cháy tỏa mùi
Từng tràng pháo chuột nổ dài trong khuya
|
|
 |
Đám Hội (Đoàn Văn Cừ)
Mùa xuân ấy, ông tôi lên tận tỉnh
Đón tôi về xem hội ở làng bên
Suốt ngày đêm chuông trống đánh vang rền
Người lớn, bé mê man về hát bội
Những thằng cu tha hồ khoe áo mới
Và tha hồ nô nức kéo đi xem
Các cụ già uống rượu măi gần đêm
Tổ tôm điếm chơi đều không biết chán
Những con bé áo xanh đ̣i chị ẵm
Để đi theo đám rước lượn quanh làng
Các bà đồng khăn đỏ chạy loăng quăng
Đón các khách thập phương về dự hội
Một chiếc kiệu đương đi dừng bước lại
Rồi th́nh ĺnh quay tít măi như bay
Một bà già kính cẩn chắp hai tay
Đứng vái măi theo đám người bí mật
Trên băi cỏ dưới trời xuân bát ngát
Một chị đương đu ngửa tít trên không
Cụ lư già đứng lại ngửng đầu trông
Mắt hấp háy nh́n qua đôi mục kỉnh
Mấy cô gái nép gần hai chú lính
Má đỏ nhừ bẽn lẽn đứng ôm nhau
Chiếc ô đen lẳng lặng tiến ra cầu
T́m đến chiếc san màu bay trước gió
Bác nhà quê kiễng chân nh́n ngấp ngó
Rồi reo lên cho ai nấy cùng trông
Đoàn trải dài vùn vụt giữa ḍng sông
Người lố nhố chèo trên làn nước lạnh
Bọn đô vật trước đ́nh thi sức mạnh
Ḿnh cởi trần gân cốt nổi như lươn
Tiếng reo ḥ khuyến khích dậy từng cơn
Lấn tiếng trống bên đường khua rộn ră
Bên mấy chiếc khăn vuông h́nh mỏ quạ
Đứng chen vào chiếc mũ trắng nghênh ngang
Bọn trai quê bá cổ cạnh cô hàng
Vờ mua bán để t́m câu chuyện gẫu
Một chú xẩm dạo đàn bên chiếc chậu
Mắt lờ mờ nghe ngóng tiếng gieo tiền
Thằng bé em đ̣i mẹ bế lên đền
Xem các cụ trong làng ra cử tế
Tiếng chiêng trống chen từng hồi lặng lẽ
Những bóng người trịnh trọng khẽ đi lên
Những cánh tay áo thụng vái mơ huyền
Đang diễn lại cả một thời quá khứ
Mà đất nước non sông cùng cây cỏ
C̣n thuộc quyền sở hữu của Linh thiêng
Khi tế xong một cụ đứng trên thềm
Giơ bánh pháo cho người kia lại đốt
Bọn trai gái đứng xem đều chạy rạt
Một thằng cu sợ hăi khóc bi be
Người đi xem nhiều bọn đă ra về...
Trên đường vắng lá đề rơi lác đác
Ốc xa rúc từng hồi trong xóm mạc
Trời đỏ hồng sau những trái đồi xanh
Đàn chim hôm nhớn nhác gọi trên cành
Vệt tháp trắng in dài trên đồng vắng
Tiếng chuông tối nhặt khoan trong yên lặng
Lẫn trống chèo văng vẳng phía làng xa
Của đám dân nô nức dưới trăng tà...
|
|
 |
Đám Cưới Mùa Xuân - (Đoàn Văn Cừ)
Ngày ửng hồng sau màn sương gấm mỏng
Nắng dát vàng trên băi cỏ non xanh
Dịp cầu xa lồng bóng nước long lanh
Đàn c̣ trắng dăng hàng bay phất phới
Trên cành cây bỗng một con chim gọi
Lũ người đi lí nhí một hàng đen
Trên con đường cát trắng cỏ lam viền
Họ thong thả tiến theo chiều gió thổi
Dưới bầu trời trong veo không mảy bụi
Giữa cánh đồng phơn phớt tựa màu nhung
Một cụ già râu tóc trắng như bông
Mặc áo đỏ cầm hương đi trước đám
Dăm sáu cụ áo mền bông đỏ sẫm
Quần nâu hồng chống gậy bước theo nhau
Hàng ô đen thong thả tiến lên sau
Kế những chiếc mâm đồng che lụa đỏ
Bọn trai tơ mặt mày coi hớn hở
Quần lụa chùng, nón dứa, áo sa huê
Một vài bà thanh lịch kiểu nhà quê
Đầu nón nghệ, tay cầm khăn mặt đỏ
Bà cụ lăo lom khom bên cháu nhỏ
Túi đựng trầu chăm chắm giữ trong tay
Thằng bé em mẹ ẵm, má hây hây
Đầu cạo nhẵn, áo vàng, quần nâu sẫm
Cô bé để cút chè người xẫm mẫm
Đi theo bà váy lĩnh, dép quai cong
Một chị sen đầu đội chiếc khăn hồng
Đặt trên cái ḥm da đen bóng lộng
Người cô dâu hôm nay coi choáng lộn
Vành khuyên vàng, áo mớ, nón quai thao
Các bạn cô bằng tuổi cũng xinh sao
Hai má thắm, ngây thơ nh́n trời biếc
Dăm bảy cô phủ ḿnh trong những chiếc
Áo đồng lầm, yếm đỏ, thắt lưng xanh
Một lúc sau đi tới chỗ ṿng quanh
Nếp chùa trắng in h́nh trên trời thẳm
Th́ cả bọn dần dần cũng khuất lẩn
Sau trái đồi lấp lánh ánh sương ngân
Chỉ c̣n nghe văng vẳng tiếng chim xuân
Ca ánh ỏi trên cành xanh tắm nắng...
|
|
 |
Đường Về Quê Mẹ (Đoàn Văn Cừ)
U tôi ngày ấy mỗi mùa xuân
Dặm liễu mây bay sắc trắng ngần
Lại dẫn chúng tôi về nhận họ
Bên miền quê ngoại của hai thân
Tôi nhớ đi qua những rặng đề
Những ḍng sông trắng lượn ven đê
Cồn xanh, băi tía kề liên tiếp
Người xới cà, ngô rộn bốn bề
Thúng cắp bên hông, nón đội đầu
Khuyên vàng, yếm thắm, áo the nâu
Trông u chẳng khác thời con gái
Mắt sáng, môi hồng, má đỏ au
Chiều mát, đường xa nắng nhạt vàng
Đoàn người về ấp gánh khoai lang
Trời xanh c̣ trắng bay từng lớp
Xóm chợ lều phơi xác lá bàng
Tà áo nâu in giữa cánh đồng
Gió chiều cuốn bụi bốc sau lưng
Bóng u hay bóng người thôn nữ
Cúi nón mang đi cặp má hồng
Tới đường làng gặp những người quen
Ai cũng khen u nết thảo hiền
Dẫu phải theo chồng thân phận gái
Đường về quê mẹ vẫn không quên
|
|
 |
Trăng Hè (Đoàn Văn Cừ)
(Do bởi nghệ thuật tả cảnh bằng thơ của thi sĩ Đoàn Văn Cừ quá tài t́nh và
điêu luyện,chúng tôi xin đăng thêm trong bộ sưu tập thơ Xuân này bài thơ
“Trăng Hè” của thi sĩ mặc dù tựa đề “Trăng Hè” không liên quan ǵ đến mùa
Xuân, với chủ đích giữ lại toàn bộ thơ sưu tập của thi sĩ như một bộ sưu
tập thi phẩm quư giá).
Tiếng vơng trong nhà kẽo kẹt đưa
Đầu thềm con chó ngủ lơ mơ
Bóng cây lơi lả bên hàng dậu
Đêm vắng, người im, cảnh lặng lờ
Ông lăo nằm chơi ở giữa sân
Tàu cau lấp loáng ánh trăng ngân
Thằng cu đứng vịn bên thành chơng
Ngắm bóng con mèo quyện dưới chân
Bên giếng, dăm cô gái xứ quê
Từng đàn vui vẻ rủ nhau về
Trên vai nặng trĩu đôi thùng nước
Kĩu kịt đi vào lối cổng tre
Trong xóm giờ lâu quá nửa đêm
Tiếng chày giă gạo đă ngừng im
Trăng tà hạ xuống ngang đầu núi
Đom đóm bay qua dải nước đen
Tiếng ốc trên cḥi rúc thiết tha
Gió bay cót két rặng tre già
Sao trời từng chiếc rơi thành lệ
Sương khói bên đồng ủ bóng mơ
|
| |
|
 |
Nguyễn Bính
( 1918-1966 )
|
Nguyễn Bính ( 1918-1966 ), thuở nhỏ tên là
Nguyễn Trọng Bính; thời ở Nam Bộ, để tránh sự lôi thôi của chính quyền thực dân Pháp, đă sửa thành Nguyễn Bính Thuyết, xuất hiện trên văn đàn với bút danh Nguyễn Bính, sinh quán tại thôn Thiện Vịnh, xă Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định trong một gia đ́nh nhà nho nghèo.
Thuở bé, Nguyễn Bính học ở nhà với cha là ông đồ Nguyễn Đạo Bỉnh, sau được cậu ruột là ông Bùi Trịnh Khiêm (một người đă tham gia phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, từng bị chính quyền bảo hộ đưa về quản thúc ở quê) nuôi dạy.
Nguyễn Bính mồ côi mẹ khi ông vừa sinh được vài tháng, cảnh nhà lại quá túng thiếu, nên ngay từ khi mới hơn mười tuổi, Nguyễn Bính đă phải rời quê, theo người anh cả là Nguyễn Mạnh Phác (Trúc Đường) ra Hà Đông, Hà Nội kiếm sống.
Nguyễn Bính làm thơ khá sớm, bài thơ được đăng báo đầu tiên là bài Cô Hái Mơ. Năm 1937, Nguyễn Bính gởi tập thơ Tâm Hồn Tôi dự thi và đă được giải thưởng của Tự Lực Văn Đoàn. Từ đó ông liên tiếp có thơ in trên rất nhiều báo. Trong ba năm, từ 1940 đến 1942, Nguyễn Bính cho ra mắt bạn đọc khắp Bắc Trung Nam bẩy tập thơ. Với những thi phẩm đó, đặc biệt là Lỡ Bước Sang Ngang, Tâm Hồn Tôi, Mười Hai Bến Nước, Nguyễn Bính đă nhanh chóng được nhiều độc giả khắp nơi yêu mến.
Theo Tự Điển Văn Học của nhà xuất bản Khoa Học Xă Hội xuất bản năm 1984, “Trong khi phần lớn các thi sĩ thơ mới chịu ảnh hưởng của văn học phương Tây th́ Nguyễn Bính vẫn tha thiết với điệu thơ dân tộc, với lối ví von duyên dáng ư nhị mà mộc mạc của ca dao, nên thơ ông được nhiều người yêu thích... Thơ Nguyễn Bính đă đem lại cho thơ mới ít nhiều màu sắc, h́nh ảnh, hương vị quê hương xa xưa.”
Đặc biệt, một số thơ của Nguyễn Bính như bài Cô Hái Mơ, Thoi Tơ, Ghen, và Chân Quê đă được phổ thành nhạc, mà trong đó, bài Cô Hái Mơ đă là nhạc phẩm đầu tay của nhạc sĩ Phạm Duy.
Nhân dịp Xuân về, chúng tôi xin đăng lại trên diễn đàn này 5 bài thơ có chữ “xuân” của thi sĩ Nguyễn Bính để tất cả chúng ta cùng thưởng lăm trong những ngày xuân. Đó là:
Mưa Xuân, Xuân Về, Thơ Xuân, Mùa Xuân Xanh, và Xuân Tha Hương
|
 |
Mưa Xuân - (Nguyễn Bính)
|
Em là con gái trong khung cửi
Dệt lụa quanh năm với mẹ già
Ḷng trẻ c̣n như cây lụa trắng
Mẹ già chưa bán chợ làng xa
Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay
Hoa soan lớp lớp rụng vơi đầy
Hội chèo làng Đặng đi ngang ngơ
Mẹ bảo: “Thôn Đoài hát tối nay”
Ḷng thấy giăng tơ một mối t́nh
Em ngừng thoi lại giữa tay xinh
H́nh như hai má em bừng đỏ
Có lẽ là em nghĩ đến anh
Bốn bên hàng xóm đă lên đèn
Em ngửa bàn tay trước mái hiên
Mưa thấm bàn tay từng chấm lạnh
“Thế nào anh ấy chả sang xem!”
Em xin phép mẹ vội vàng đi
Mẹ bảo xem về kể mẹ nghe
Mưa bụi nên em không ưót áo
Thôn Đoài cách có một thôi đê
Thôn Đoài vào đám hát thâu đêm
Em mải t́m anh chả thiết xem
Chắc hẳn đêm nay giường cửi lạnh
Thoi ngà nằm nhớ ngón tay em
Chờ măi anh sang anh chả sang
Thế mà hôm nọ hát bên làng
Năm tao bẩy tuyết anh ḥ hẹn
Để cả mùa xuân cũng nhỡ nhàng!
Ḿnh em lầm lũi trên đường về
Có ngắn ǵ đâu một dải đê!
Áo mỏng che đầu mưa nặng hạt
Lạnh lùng thêm tủi với canh khuya
Bữa ấy mưa xuân đă ngại bay
Hoa soan đă nát dưới chân giầy
HộI chèo làng Đặng về ngang ngơ
Mẹ bảo: “Mùa xuân đă cạn ngày”
Anh ạ! Mùa xuân đă cạn ngày!
Bao giờ em mới gặp anh đây?
Bao giờ chèo Đặng đi ngang ngơ
Để mẹ em rằng hát tối nay?
|
|
 |
Xuân Về (Nguyễn Bính)
|
Đă thấy xuân về với gió đông
Với trên màu má gái chưa chồng
Bên hiên hàng xóm cô hàng xóm
Ngước mắt nh́n giời đôi mắt trong
Từng đàn con trẻ chạy xum xoe
Mưa tạnh giời quang nắng mới hoe
Lá nơn nhành non ai tráng bạc
Gió về từng trận gió bay đi
Thong thả dân gian nghỉ việc đồng
Lúa th́ con gái mượt như nhung
Đầy vườn hoa bưởi hoa cam rụng
Ngào ngạt hương bay, bướm vẽ ṿng
Trên đường cát mịn một đôi cô
Yếm đỏ khăn thâm trẩy hội chùa
Gậy trúc dắt bà già tóc bạc
Tay lần tràng hạt miệng nam mô
|
|
 |
Thơ Xuân (Nguyễn Bính)
|
Đây cả mùa xuân đă đến rồi
Từng nhà mở cửa đón vui tươi
Từng cô em bé so màu áo
Đôi má hồng lên nhí nhảnh cười
Và tựa hoa tươi cánh nở dần
Từng hàng thục nữ dậy th́ xuân
Đường hương thao thức ḷng quân tử
Vó ngựa quen rồi ngơ ái ân
Từng gă thư sinh biếng chải đầu
Một ḿnh mơ ước chuyện mai sau
Lên kinh thi đỗ làm quan Trạng
Công chúa cài trâm thả tú cầu
Có những ông già tóc bạc phơ
Rượu đào đôi chén bút đề thơ
Những bà tóc bạc hiền như Phật
Sắm sửa hành trang trẩy hội chùa
Pháo nổ đâu đây khói ngợp trời
Nhà nhà đoàn tụ dưới hoa tươi
Ḷng tôi như cánh hoa tiên ấy
Một áng thơ đề nét chẳng phai
|
|
 |
Mùa Xuân Xanh (Nguyễn Bính)
|
Mùa xuân là cả một mùa xanh
Giời ở trên cao, lá ở cành
Lúa ở đồng tôi và lúa ở
Đồng nàng và lúa ở đồng quanh
Cỏ nằm trên mộ đợi thanh minh
Tôi đợi người yêu đến tự t́nh
Khỏi lũy tre làng tôi nhận thấy
Bắt đầu là cái thắt lưng xanh
|
|
 |
Xuân Tha Hương (Nguyễn Bính gửi chị Trúc)
Tết này chưa chắc em về được
Em gửi về đây một tấm ḷng
Ôi! Chị một em, em một chị!
Trời làm xa cách mấy con sông!
Em đi dang dở đời mưa gió
Chị ở vuông tṛn phận lănh cung!
Chén rượu tha hương! Trời! Đắng lắm!
Trăm hờn ngh́n giận suốt mùa đông!
Chiều qua nh́n ngắm hoàng hôn xuống
Nhớ chị làm sao nhớ lạ lùng!
Tết này chưa chắc em về được
Em gửi về đây một tấm ḷng
Vườn ai thấp thoáng hoa đào nở
Chị vẫn môi son? Vẫn má hồng?
Áo rét ai đan mà ngóng đợi
C̣n vài hôm nữa hết mùa đông
Cột nhà hàng xóm lên câu đối
Em đọc tương tư giữa giấy hồng!
Gạo nếp nơi đây sao trắng quá
Mỗi ngày phiên chợ một thêm đông
Thiên hạ đua nhau mà sắm Tết
Một ḿnh em vẫn cứ tay không!
Vườn nhà Tết đến hoa c̣n nở
Chị gửi cho em một cánh hồng
(Tha hương chả gặp người tri kỷ
Một cánh hoa tươi đỡ lạnh ḷng!)
Tết này chưa chắc em về được
Em gửi về đây một tấm ḷng
Chao ôi! Tết đến mà không được
Trông thấy quê hương thật năo nùng!
Ai bảo mắc duyên vào bút mực
Sống đời mang lấy số long đong
Người ta đi kiếm giàu sang cả
Ḿnh chỉ mơ toàn chuyện viễn vông!
Em biết giàu sang đâu đến lượt
Nợ đời nặng quá gỡ sao xong?
|
Tết này chưa chắc em về được
Em gửi về đây một tấm ḷng
Năm nay, ồ! Thế mà vui chán
Nhưng vẫn ḿnh em uống rượu hồng
Rượu say, nhớ chị hồi con gái
Thương chị từ khi chị lấy chồng!
Cố nhân chẳng biết làm sao ấy
Rặt những tin đồn chuyện bướm ong
Thôi em chả dám đa mang nữa
Chẳng buộc chân vào sợi chỉ hồng
Nàng bèo bọt quá, em lăn lóc
Chắp nối nhau hoài cũng uổng công
(Một trăm con gái thời nay ấy
Đừng nói ân t́nh, nói thủy chung!)
Người ấy xuân già chê gối lẻ
Nên người nôn nả chuyện sang sông!
Đ̣ ngang bến dọc tha hồ đấy
Quư hóa ǵ đâu một chữ “đồng”!
Vâng, em trẻ dại, em đâu dám...
Thôi để người ta được kén chồng
Thiếu nữ hoài xuân mơ cát sĩ
Chịu làm sao được những đêm đông?
(Khốn nạn, tưởng yêu th́ khó chứ
Không yêu th́ thực dễ như không!)
Chị ơi! Tết đến em mua rượu
Em uống cho say thật năo nùng!
Uống say cười vỡ ba gian gác
Ném cái chung t́nh xuống đáy sông!
Tết này chưa chắc em về được
Em gửi về đây cả tấm ḷng
Sương muối gió may rầu rĩ lắm
Chỉ vài hôm nữa hết mùa đông
Xuân đến cho em thêm một tuổI
Thế nào em cũng phải thành công
Em không khóc nữa, không than nữa
Đây một bài thơ hận cuối cùng!
Không than chắc hẳn hồn tươi lạI
Không khóc tha hồ đôi mắt trong
Chị ơi! Em cưới mùa xuân nhé
Đốt pháo cho thơm với rượu hồng!
Xa nhà, xa chị tuy buồn thật
Cũng cố vui ngang gái được chồng
Em sẽ uống say hơn mọi bận
Để hồn về măi xứ Hà Đông!
Tết này chưa chắc em về được
Em gửi về đây một tấm ḷng
Với lá thư này là tất cả
Những lời tâm sự một đêm đông
Thôn gà eo óc ngoái xa vắng
Trời đất tàn canh tối mịt mùng
Đêm nay em thức thi cùng nến
Ai biết t́nh em với núi sông?
Mấy sông mấy núi mà xa được
Ḷng chị em ta vẫn một ḷng!
Tết này chưa chắc em về được
Em gửi về đây cả tấm ḷng
Cầu mong cho chị vui như Tết
Tóc chị bền xanh, má dậy hồng
Trong mùa nắng mới sầu không đến
Giữa hội hoa tươi ấm lại ḷng
Chắc chị đời nao quên nhắc nhở
“Xa nhà, rượu uống có say không?”
|
|
|
 |
Hàn Mặc Tử ( 1912-1940
)
|
Nhà thơ với cuộc
đời đau thương có một không hai này
tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh quán Lệ Mỹ, Đồng Hới nhưng trú ngụ ở Quy Nhơn từ nhỏ. Ông nhà nghèo, cha mất sớm, học trường Quy Nhơn đến năm thứ ba, làm Sở Đạc Điền một độ, bị bệnh rồi mất việc. Ông vào Nam làm báo ít lâu lại trở về Quy Nhơn, kế đó mắc bệnh hủi, được đưa vào nhà thương Quy Ḥa rồi mất ở đó.
Thi phẩm tiêu biểu:
Gái Quê
(1936),
Thơ Đường Luật, Thơ Điên
(gồm ba tập: Hương Thơm, Mật Đắng, Máu Cuồng và Hồn Điên),
Xuân Như Ư,
Thượng Thanh Khí, và
Cầm Châu Duyên.
Kịch thi: Duyên Kỳ Ngộ và Quần Tiên Hội
Ông làm thơ từ ngày 16 tuổi, lấy hiệu là Phong Trần rồi Lệ Thanh. Đến năm 1936, khi phụ trách tờ phụ trương văn chương báo Saigon, ông mới đổi bút hiệu là Hàn Mạc Tử. [“chàng bức rèm lạnh” hay “chàng đơn lạnh”],
và sau cùng là Hàn Mặc Tử [“chàng văn chương” hay “chàng bút mực”]
Trong loạt bài này, chúng tôi đă sử dụng bút danh Hàn Mặc Tử cho nhà thơ. Tuy
nhiên cũng xin đưa ra đây vấn đề tranh căi hai bút danh này cho bạn đọc tham
khảo. V́ đây là một cuộc tranh căi thú vị. Cho đến nay, những nhà sưu tầm,
nghiên cứu, những người quan tâm vẫn phân thành 2 "trường phái" khác nhau: Hàn
Mạc Tử và Hàn Mặc Tử. V́ thế các cuốn sách, bài báo in ra cũng chia làm 2 nhóm:
nhóm Mặc và nhóm Mạc. Những "đại biểu tiên phong" cho "trường phái Mạc" có thể
kể: Giáo sư Hoàng Như Mai, Giáo sư Văn Tâm, nhà sưu tầm Phạm Xuân Tuyển. Phạm
Xuân Tuyển đă làm một bản thống kê những tài liệu sử dụng chữ Mạc như sau: Báo
Người Mới trong các số chuyên đề về Tử năm 1941, Trần Thanh Mại trong cuốn sách
viết về Tử năm 1942, Hoài Thanh - Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam năm 1942,
Phó tiến sĩ Phùng Quư Nhâm trên Kiến Thức Ngày Nay số 47, giáo sư Hà Minh Đức
trong Tổng tập Văn học Việt Nam số 27, giáo sư Lê Đ́nh Kỵ trong Thơ Mới - Những
bước thăng trầm - 1993, giáo sư Vũ Ngọc Khánh trong tập Thơ t́nh yêu - 1995,
giáo sư Hà Vinh - Khoa tiếng Việt - Đại học Tổng hợp Hà Nội trong Tạp chí Văn
Học - 1995, giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh - Phó tiến sĩ Trần Đăng Xuyền trong sách
Những bài văn hay và khó - 1995...
C̣n những người theo "trường phái Mặc" gồm những ai? Có lẽ hai người quan
trọng nhất là Nguyễn Bá Tín, em ruột nhà thơ và Quách Tấn, bạn thân nhà thơ.
Nguyễn Bá Tín đă dùng Mặc trong hai cuốn sách quan trọng của ḿnh, cuốn Hàn Mặc
Tử anh tôi - 1991 và Hàn Mặc Tử trong riêng tư - 1994. Quách Tấn cũng dùng Mặc
trong Bóng ngày qua - 2000. Những người khác có thể kể: Chế Lan Viên trong Tuyển
tập Hàn Mặc Tử - 1987, Lữ Huy Nguyên trong Hàn Mặc Tử thơ và đời - 1994, Trần
Thị Huyền Trang trong Hàn Mặc Tử hương thơm và mật đắng, Vương Trí Nhàn trong
Hàn Mặc Tử - Hôm qua và hôm nay...
Nguyễn Bá Tín cho biết, bút danh Hàn Mặc Tử đă có trước, c̣n bút danh Hàn Mạc Tử chỉ là bạn bè đặt cho để trêu đùa: "Có nhiều hôm anh ngồi thừ trên chiếc ghế
mây, nh́n qua bức mành tre sáo trước cửa, đợi chị Cúc đi ngang qua, trông anh đến thiểu năo. Chị Cúc biết điều đó, về sau kể với con gái chị Như Lễ rằng: Nghĩ
tội nghiệp anh quá. Bạn bè đến chơi trông thấy anh ngồi buồn bă như kẻ thất t́nh,
nên thường trêu cợt anh là con người sau bức rèm lạnh và gọi đùa anh là Hàn Mạc Tử. Chữ Hàn ở đây có nghĩa là lạnh và chữ Mạc không dấu là bức màn. Hai chữ Hàn
Mạc là bức rèm lạnh. Anh chỉ cười, không nói ǵ, cũng không để ư đến nữa. Măi về
sau khi anh qua đời c̣n nhiều người vẫn tưởng lầm bút hiệu của anh là Hàn Mạc Tử".
Ông Tín cho biết, Tử vốn rất ngưỡng mộ triết gia Mặc Dịch thời Chiến Quốc, nổi
tiếng chủ trương thuyết Kiêm ái, nên anh cũng tự nhận thuộc môn phái Mặc Dịch, thương yêu hết mọi người. Chữ Mặc Tử có ư nghĩa là môn đồ Mặc Dịch. Chữ Mạc Tử
th́ không có ư nghĩa ǵ. Chữ Hàn Mặc Tử nói lên ư nghĩa một thi sĩ nghèo nàn, nhưng t́nh thương rộng răi bao la.
Quách Tấn th́ kể tỉ mỉ hơn và có phần khác Nguyễn Bá Tín. Quách Tấn cho biết, khi mới bước vào làng thơ, Tử lấy bút danh là Minh Duệ Thị. Sau đổi là Phong
Trần. Tử nổi tiếng với bút danh Phong Trần nhờ cuộc xướng họa thơ văn lịch sử
với Phan Bội Châu. Khi Quách Tấn quen thân Tử, Quách Tấn chê bút danh Phong Trần không hợp với Tử. V́ thế Tử đổi qua bút danh Lệ Thanh. Bút danh này đă gắn chặt
với tập thơ Lệ Thanh Thi Tập của Tử. Nhưng được ít lâu Quách Tấn lại chê. Tử lại
đổi qua Hàn Mạc Tử. Quách Tấn lại chê nữa. Khi đó Tử nổi nóng. Quách Tấn liền
gợi ư: "Đă có rèm th́ thêm bóng trăng vào. Hỏi c̣n cảnh nào nên thơ bằng?". Nghe vậy, Tử thêm "bóng trăng" là dấu á trên đầu chữ a nên chữ Mạc thành ra Mặc. Từ
đó bút danh đổi nghĩa từ kiếp rèm lạnh ra anh chàng bút mực. Bút danh này khiến Tử rất thích và dùng luôn.
Lời giải thích trên đây nghe cũng thật có lư nhưng mấy chục năm nay vẫn không thuyết phục được những người theo "trường phái Mạc", cho nên cuộc tranh căi này
chưa biết bao giờ kết thúc nếu không t́m được bút tích của chính nhà thơ để chứng minh ai đúng ai sai. (Thanhnien)
Nhân dịp Xuân về, chúng tôi xin đăng lại hai bài thơ xuân nổi tiếng của thi
sĩ Hàn Mặc Tử, “Mùa Xuân Chín” và “Xuân Đầu Tiên.”
 |
Mùa Xuân Chín -(Hàn Mạc Tử)
Trong làn nắng ửng: khói mơ tan,
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng.
Sột soạt gió trêu tà áo biếc,
Trên giàn thiên lư. Bóng xuân sang.
Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời,
Bao cô thôn nữ hát trên đồi;
- Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi...
Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,
Hổn hển như lời của nước mây...
Thầm th́ với ai ngồi dưới trúc,
Nghe ra ư vị và thơ ngây...
Khách xa gặp lúc mùa xuân chín,
Ḷng trí bâng khuâng sực nhớ làng.
- Chị ấy năm nay c̣n gánh thóc,
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?
|
|
 |
Xuân Đầu Tiên (Hàn Mặc Tử)
Từ gió xuân đi, gió hạ về
Anh thường gửi gắm mối t́nh quê
Bên em mỗi lúc trên đường cái
Hóng mát cho ḷng được thỏa thuê!
Em có ngờ đâu trong những đêm
Trăng ngà giăi bóng mặt hồ êm
Anh đi thơ thẩn như ngây dại
Hứng lấy hương nồng trong áo em
Bên khóm thùy dương em thướt tha
Bên này bờ liễu anh trông qua
Say mơ vướng phải mùa hương ướp
Yêu cái môi hường chẳng nói ra
Độ ấy xuân về em lớn lên
Thấy anh em đă biết làm duyên
. . . (có lẽ mất một câu ở đây?)
Yêu dấu ḷng anh ôm hận riêng
|
| |
|
 |
Chế Lan Viên ( 1920-1989 )
|
Chế Lan Viên tên thật là Phan Ngọc Hoan, quê ở Nghệ An, học trường Quy Nhơn,
có bằng Thành Chung..
Theo Thi Nhân Việt Nam xuất bản năm 1988, trang 219, “Vong linh đau khổ của ṇi giống [Chiêm Thành] đă nhập vào Chế Lan Viên, cho nên, dầu không phải người họ Chế, Chế Lan Viên vẫn là một nhà thơ Chiêm Thành. Quyển Điêu Tàn đă đột ngột xuất hiện ra giữa làng thơ Việt Nam như một niềm kinh dị.”
Nhân dịp Xuân về, chúng tôi xin đăng lại một bài thơ
Xuân
tiêu biểu của thi sĩ Chế Lan Viên.
 |
Xuân (Chế Lan Viên)
Tôi có chờ đâu có đợi đâu?
Đem chi xuân lại gợi thêm sầu?
Với tôi tất cả như vô nghĩa,
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau!
Ai đâu trở lại mùa thu trước,
Nhặt lấy cho tôi những lá vàng?
Với của hoa tươi, muôn cánh ră,
Về đây đem chắn nẻo xuân sang!
Ai biết hồn tôi say mộng ảo,
Ư thu góp lại cản t́nh xuân?
Có một ngườI nghèo không biết Tết,
Mang ĺ chiếc áo độ thu tàn!
Có đứa trẻ thơ không biết khóc,
Vô t́nh bỗng nổi tiếng cười ran!
Chao ôi! Mong nhớ! Ôi mong nhớ!
Một cánh chim thu lạc cuối ngàn.
|
| |
|
 |
Huy Cận
( 1919-2005
)
|
Cù Huy Cận quê ở huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Ông tốt nghiệp trường Cao Đẳng Nông Lâm. Hồi 1936, thi sĩ viết giúp Tràng An và Sông Hương với bút hiệu Hán Quỳ. Từ 1938 đến trước chiến tranh, thơ của ông được đăng ở Ngày Nay. Năm 1940, tuyển tập thơ Lửa Thiêng của ông đă được xuất bản ở Hà Nội (Thi Nhân Việt Nam, 1988, trang 135).Kính mời quư vị hăy cùng chúng tôi thưởng thức những bài thơ “Xuân Ư”, “Xuân”, “Trăng Xuân” và “Chiều Xuân” của thi sĩ Huy Cận. |
 |
Xuân Ư (Huy Cận)
Đêm vừa nhẹ, gió vừa mơn
Cây chen ánh nguyệt trải vờn bóng xanh
Khuya nay, mùa động đầu cành
Đồng trăng lục nhạt, vàng thanh lối gần
Trăng êm cho gió thanh tân
Hương rừng tỉnh dậy ái ân xuống đồng
Đêm say không khí say nồng
Ngh́n cây mở ngọn , muôn ḷng hé phơi
Khuya nay trong những mạch đời
Máu thanh xuân dậy thức người héo hon
Ngón tay tưởng búp xuân tṛn
Có người ra dạo vườn non thẫn thờ..
|
|
 |
Xuân (Huy Cận)
Luống đất thơm hương mùa mới dậy
Bên đường chân rộn bước trai tơ
Cây xanh cành đẹp xui tay với
Sông mát tràn xuân nước đậm bờ
Ồ những người ta đi hóng xuân
Cho tôi theo với, kéo tôi gần!
Rộn ràng bước nhịp hương vương gót
Nhựa mạnh tuôn trào tưởng dính chân
Bắt gặp mùa tươi lên rún rẩy
Trong cành hoa trẻ, cổ chim non
- Có ai gửi ư trong xuân cũ
Đất nở muôn xuân vẫn chẳng ṃn?
|
|
 |
Trăng Xuân (Huy Cận)
Đầu năm gió mát tựa hè
Nứt bung hoa gạo, bốn bề trăng xuân
Sông là người đẹp khoả thân
Núi xanh mơn mởn, bước gần bước xa
Lá ngô, lá mía ŕ rà
Aó đêm xuân khéo, mượt mà dải tơ
|
|
 |
Chiều Xuân (Huy Cận)
Xuân gội tràn đầy
Giữa ḷng hoan lạc
Trên ḿnh hoa cây...
Nắng vàng lạt lạt
Ngày đi chầy chầy
Hai hàng cây xanh
Đâm chồi hy vọng
Ôi duyên tốt lành...
Én ngàn đưa vơng
Hương đồng lên hanh
Kề bên đường ṃn
Mùa đông đă tạnh
Cỏ mọc bờ non...
|
Chiều xuân tươi mạnh
Gió bay vào hồn
Có bàn tay cao
Trút b́nh ấm dịu
Từ phương xa nào...
Người cô yểu điệu
Nghe ḿnh nao nao...
Nhạc vươn lên trời
Đời măng đang dậy
Tưng bừng muôn nơi...
Mai rừng gió hẩy
Chiều xuân đầy lời |
|
|
 |
Anh Thơ ( 1919-2005 )
|
Anh Thơ tên thật là Vương Kiều Ân (Vương họ cha, Kiều họ mẹ), sinh quán Ninh Giang. Thân phụ bà là một nhà Nho đậu tú tài có ra làm công chức và phải thuyên
chuyển nhiều nơi nên bản thân bà, theo cha mẹ nên đă phải đổi trường học nhiều
lần mà vẫn chưa qua hết bậc tiểu học.
Nữ sĩ đăng thơ trên Hanoi báo (bút hiệu Hồng Anh), Tiểu Thuyết Thứ Năm, Ngày Nay, và Phụ Nữ. Được giải thưởng khuyến khích về thơ của Tự Lực Văn Đoàn năm
1941.
Tác phẩm chính: Bức Tranh Quê (tuyển tập thơ, 1941), Xưa (tuyển tập thơ, hợp tác với Bàng Bá Lân, 1941), Răng Đen (tiểu thuyết, 1942).
Anh Thơ chuyên về thơ tả cảnh, những cảnh rất tầm thường như một phiên chợ,
một đứa bé quét sân, một vài người đàn bà ngồi bắt chấy. Trong lần gặp bà tại căn hộ nhỏ thuộc khu tập thể Văn Chương - Hà Nội vào năm 2002, bà kể: "Đă có
nhiều người viết về tôi nhưng hiếm khi họ viết chính xác. Dường như người ta chỉ
tập trung hỏi tôi về mối t́nh với nhà thơ Nguyễn Bính chứ không hỏi ǵ về thơ ca của tôi. Tôi làm thơ từ khi mới 6 tuổi..." Điều đáng quư ở nữ sĩ Anh Thơ
là bà không tự hào hoặc lớn tiếng tuyên bố về lư do làm thơ rất sang trọng và cao ngạo như nhiều nhà thơ khác. Lư do rất thật và cũng rất giản dị: "Tôi làm
thơ chỉ v́ buồn. Cha tôi dạy các anh em trai của tôi làm thơ, tôi ngồi trong buồng nghe lỏm được và làm theo thôi. Khi biết tôi làm thơ, cha tôi giận và
thương tôi lắm... Phận nữ nhi trong gia đ́nh nhà nho truyền thống hiển nhiên phải tập gương sáng công, dung, ngôn, hạnh; phải thấm nhuần đạo tam cương ngũ
thường chứ không phải học làm thơ. Tâm hồn nhạy cảm, đặc biệt là nhạy cảm với
cái đẹp có bao giờ mang lại hạnh phúc cho ḿnh đâu?” Năm 1941, thi phẩm Bức Tranh Quê của bà ra đời và ngay lập tức được cả công chúng và các nhà thơ
mới hân hoan đón nhận, được giải thưởng khuyến khích về thơ của Tự Lực Văn đoàn.
Chúng ta hăy cùng thưởng thức sau đây “Chiều Xuân” và “Chợ Ngày Xuân” của nữ
sĩ Anh Thơ. |
 |
Chiều Xuân (Anh Thơ)
Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng
Đ̣ biếng lười nằm mặc nước sông trôi
Quán tranh đứng im ĺm trong vắng lặng
Bên cḥm xoan hoa tím rụng tơi bời
Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ
Đàn sáo đen xà xuống mổ vu vơ
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió
Những trâu ḅ thong thả cúi ăn mưa
Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng
Lũ c̣ con chốc chốc vụt bay ra
Làm giật ḿnh một cô nàng yếm thắm
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa<
|
|
 |
Chợ Ngày Xuân (Anh Thơ)
Mưa vừa tạnh, nắng bừng trên quán mới
Trên cây đa lấp loáng gió lao xao
Trên những giải lưng điều bay phấp phới
Các cô nàng lơ lẳng nón quai thao
Chợ đông quá! Chỗ này vài chiếu bạc
Những chàng trai ô mới mở giương vây;
Cười nói nói luôn mồm và chỗ khác
Mấy cụ ngồi nhắm rượu gật gù say
Nhưng đông nhất quán hàng người đoán thẻ
Một lăo già kính trắng, bịt khăn đen
Các cô gái chen nhau vào vui vẻ
Nghe Thánh truyền sắp đắt mối lương duyên
|
|
|
 |
Quách Tấn ( 1910-1992 )
|
Quách Tấn, hiệu là Trường Xuyên, sinh quán ở Tây Sơn, B́nh Định nhưng hơn nửa
đời người ông gắn bó với Nha Trang, Khánh Ḥa, nơi đă đi vào tác phẩm Xứ Trầm
Hương quen thuộc. Quách Tấn thuở nhỏ học chữ Hán, 12 tuổi bắt đầu học chữ Quốc
ngữ và chữ Pháp.
Nhà thơ Quách Tấn là một trong bốn nhà thơ nổi tiếng của “Bàn Thành Tứ Hữu” ở
đất B́nh Định những năm nửa đầu thế kỷ 20. Cùng với Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên,
Yến Lan, ông đă để lại cho đời những tác phẩm văn học quư giá. Trong ngôi nhà
nhỏ nơi phố chợ đông đúc, số 12 Bến Chợ, thành phố Nha Trang, ít ai biết được
đây đă từng là nơi gặp gỡ tâm giao của bốn nhà thơ thời tiền chiến và nhiều văn
nhân thuở ấy. Nhà dẫu chật nhưng con cháu vẫn trân trọng dành riêng một căn
pḥng tưởng niệm để thờ cúng và lưu giữ những tác phẩm và di cảo của ông. Sinh
thời, Quách Tấn kính trọng cụ Phan Bội Châu, lại được Tản Đà d́u dắt, và có
những người bạn thơ tâm huyết như Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên, Yến Lan, Bích Khê,
và Nguyễn Đ́nh. Những nhà thơ từ Bắc vào Nam đều được Quách Tấn tiếp đón niềm nở.
V́ vậy, khi ông ra đi, con cháu ông đă để những người xưa kề cận bên ông trong
căn pḥng tưởng niệm.
“Trường Xuyên tứ bảo” là bốn kỷ vật quư mà nhà thơ đă lưu giữ, mỗi vật đều
gợi nhớ về nỗi niềm, t́nh cảm của người đă đi xa. Bốn vật đó là: quyển Tô Văn
Trung, quyển Lữ Đường Thi, khúc sừng tê giác do nhà nghiên cứu văn hoá Nguyễn
Hiến Lê tặng năm 1973, và ba chiếc lá mận. Ba chiếc lá mận này trước sân nhà bay
vào pḥng giấy khi ông viết hồi kư Bóng Ngày Qua năm 1973, đến đúng đoạn ông
viết về cây mận ba nhành.
Riêng quyển Tô Văn Trung và Lữ Đường Thi c̣n nguyên những ḍng chữ của nhà
thơ. Quách Tấn đặc biệt quư bộ sách Tô Văn Trung. Suốt những năm tản cư thời
đánh Pháp, di chuyển đến đâu ông vẫn mang theo bên ḿnh. Vậy mà đến năm 1953, v́
nhà nghèo, vợ bệnh, ông đau ḷng phải bán bộ sách gồm 20 quyển, chỉ chuộc lại
một quyển làm kỷ niệm.
Tất cả những di cảo của Quách Tấn, gồm luôn cả những bản thảo viết tay Mùa Cổ
Điển và hàng chục bản thảo khác của nhà thơ, cùng bút tích của các nhà thơ Bích
Khê, Chế Lan Viên, Nguyễn Đ́nh..., và các bài báo, tập sách viết về người cha
kính yêu đều được con cháu giữ ǵn và sắp xếp cẩn thận theo thứ tự.
Quách Tấn, một nhà thơ trang nghiêm và cẩn trọng, tinh tế trong từng chữ,
từng lời, để lại một số lượng thơ văn đồ sộ. Cùng với gần 20 tập thơ, văn đă
xuất bản từ năm 1939 đến 2003, vẫn c̣n 25 tập thơ và trên 40 tập văn của Quách
Tấn chưa xuất bản. Là người con luôn kề cận và sưu tập những tác phẩm của cha,
nay đă bước vào tuổi thất thập, ông Quách Giao luôn tâm nguyện dành hết thời
gian c̣n lại để làm thế nào in gần hết tác phẩm của cha ḿnh. Đó là tập hồi kư
Bóng Ngày Qua (mới chỉ in được 4/20 quyển), là các thi thoại, công tŕnh nghiên
cứu về Đào Tấn và tuồng B́nh Định v.v... Trong năm 2006 sắp tới, ông sẽ in 500
bài thơ tuyển chọn qua hơn 2000 bài thơ của Quách Tấn. (Trích “Di Cảo Của Nhà
Thơ Quách Tấn - Một Thời Vang Bóng của Liên Minh, http://vietnamnet.vn/vanhoa/chuyende/2005/12/523435)
Sau đây, kính mời quư vị cùng chúng tôi thưởng thức bài thơ “Chiều Xuân” (trích
trong Mùa Cổ Điển) được làm theo thể thơ Đường luật thất ngôn bát cú của thi sĩ
học giả Quách Tấn.
|
 |
Chiều Xuân (Quách Tấn)
Chim mang về tổ bóng hoàng hôn
Vàng lửng lơ non biếc đọng cồn
Cành gió hương xao hoa tỉ muội
Đồi sương sóng lượn cỏ vương tôn
Khói mây quanh quẩn hồi chuông vọng
Trời biển nôn nao tiếng địch dồn
Thưởng cảnh ông câu t́nh tự quá
Thuyền con chở nguyệt đến cô thôn
|
|
|
 |
J. Leiba ( 1912- ? )
|
J. Leiba tên là Lê Văn Bái, sinh quán ở Yên Bái, chính quán ở Nam Định. Ông
học trường Bảo Hộ Hà Nội đến năm thứ ba th́ bỏ đi theo một nhóm giang hồ mại vơ
trót một năm, sau về quê học chữ Hán. Năm 1935 ông đậu thành chung, rồi vào
ngạch thư kư ṭa sứ Bắc kỳ.
Thơ J. Leiba được đăng trên Ngọ Báo, Loa, Tin Văn, L’Annam Nouveau, Tiểu
Thuyết Thứ Bảy, Ích Hữu, Việt Báo, và Nam Cường.
Thơ đăng báo của J. Leiba với một tên kư chẳng Việt Nam tí nào, thế mà vừa ra
đời thơ ông liền được ưa thích và chào đón. Thơ ông có giọng Đường rơ rệt, mà
lại nói được nỗi ḷng riêng của người thời đó. Trong khuôn khổ xưa, cái hương vị
mới ấy rất dễ say người. Thơ J. Leiba ra đời năm ông mới 22 tuổi (1934) giữa lúc
ai nấy đều thấy ḿnh như trẻ lại. Các nhà thơ đương thời, Thế Lữ, Đông Hồ, Thái
Can, kẻ trước người sau đều tả nỗi ḷng của người thiếu nữ lúc mới bén t́nh yêu
bằng những nét âu yếm. Nhưng không ai nói được đầy đủ như J. Leiba, tác giả bài
“Năm Qua,” những giai đoạn của một cuộc t́nh nhóm lên trong tim một người thiếu
nữ từ khi tóc c̣n bỏ xoă. Ít ai nói được như J. Leiba những vui buồn của người
xuân nữ.
Chúng ta hăy cùng thưởng thức hai bài thơ Xuân, hai chuyện t́nh rất buồn “Năm
Qua” và “Mai Rụng” của thi sĩ J. Leiba.
|
 |
Năm Qua (J. Leiba)
Em nhớ năm em mới lên mười
Tóc em buông xơa chấm ngang vai
Ngây thơ nào biết em xinh đẹp
Cùng trẻ bên đường đánh “chắt” chơi
Anh đi qua đó đứng nh́n em
Em vứt sành đi vội đứng lên
Dắt tay cười nói thi nhau chạy
Em vấp vào anh ngă xuống thềm
Me em chạy lại bế em hôn
Êm ái đe em sẽ đánh đ̣n
Em phải nhịn đau không dám khóc
V́ em trông thấy vẻ anh buồn Em nhớ năm em lên mười hai
Một ḿnh em lấy trộm gương soi
Đường ngôi đương kẻ th́ anh đến
Anh đến bên em mỉm miệng cười
Em thẹn quăng gương chạy xuống nhà
Nín hơi anh gọi cũng không thưa
Sau mành lấp ló em nh́n trộm
Em đợi anh về mới dám ra Em nhớ năm em lên mười lăm
Cũng ngày đông cuối sắp sang xuân
Mừng xuân em thấy tim hồi hộp
Nh́n cái xuân sang khác mỗi lần
Ba mươi, em đứng ngắt hoa đào
Nghỉ học anh về qua trước ao
Ngẩng mặt vừa khi anh ngó thấy
Ném hoa em vội chạy ngay vào
Mồng hai, anh lễ Tết nhà em
Em đứng nh́n anh, nấp bóng rèm
Mười sáu xuân rồi anh đă nhớn
T́m em rầu rĩ vẻ anh nh́n
Em thấy tim em đập rộn ràng
Muốn ra lại ngại cháy tâm can
Mẹ em rót nước mời anh uống
Anh tủi, em rầu, ai khổ hơn? Năm ấy xuân em có một ḿnh
Ai vui em những ngẩn ngơ t́nh
Này quân tam cúc năm xưa đó
Nào lúc vui đùa, em với anh?
Mồng một, vui xuân hai chúng ta
Em mười ba tuổi, tính c̣n thơ
Em anh c̣n căi nhau như trẻ
Em dỗi, anh nh́n, dạ ngẩn ngơ... Xuân nay xuân trước cách bao rồi?
Nhớ buổi xuân nào, tiếc phút vui
Em ước đôi ta cùng bé lại:
Vui xuân lại được đánh bài chơi!
Ngày nay nhớ lại buổi vô t́nh
Anh lặng yêu em, em nhớ anh
Rồi nữa xuân qua, xuân lại lại
Biết rằng sau có vẹn ba sinh? Hôm qua em đến mái đông lân
Cô gái khâu thêu vẻ ngại ngần
Tơ lụa bộn bề quần áo cưới
Vội vàng cho khách kịp ngày xuân
Duyên ḿnh hờ hững hộ duyên ai
Cô gái đông lân dáng ngậm ngùi
Ngán nỗi năm năm đưa chỉ thắm
Pḥng không may áo cưới cho người!...
Anh ơi! Anh mải bước công danh
Để phụ cho nhau một mối t́nh
Nhánh liễu vườn xuân, ai ấy chủ?
Chờ ai biết có khỏi trao cành?
Má đó, xuân em chỉ có th́
Xuân qua, phó nhẽ đợi anh về
Tương tư lệ nhỏ phai màu phấn
Anh hỡi! Yêu nhau há đợi ǵ?
Danh lợi như mây nổi giữa giời
Hồng nhan phải giống măi trên đời?
Đợi anh áo gấm xuân sau lại
Chỉ sợ nghiêng giành hót quả mai! |
|
 |
Mai Rụng (J. Leiba)
Nụ hồng rải lối, liễu tơ phai
Vườn cũ rêu lan, cỏ mọc dài
Bên gốc mai già, xuân vắng vẻ
Âu sầu thiếu nữ khóc hoa mai...
Hoa mai đă tạ, lá mai vàng
Vàng úa đầu cành, ủ bóng dương
Lác đác mai già rơi mặt đất
Hoa xưa thành quả, quả nay tàn!
Quả tàn héo rụng gốc cây khô
Thiếu nữ âu sầu tưởng mộng xưa
Vạch cỏ, ngậm ngùi nghiêng gió hốt
Rạt rào hoa rụng cánh như mưa
Giỏ chưa đầy quả, lệ chan sầu
Vứt giỏ bên ḿnh, kéo áo lau
Gió đuổi hoa tàn bay xớn xác
Má hồng sầu ủ, ủ làn châu...
Năm xưa em ở chốn pḥng khuê
Yêu, nhớ, ngây thơ đă biết ǵ
Mai nở, mai tàn, mai lại rụng
Tường đông, xuân sắc, mặc đi về
Tường đông, xuân ấy gặp t́nh lang
Chàng nhủ cùng em nỗi nhớ thương
Ngơ ngẩn em về, sầu chẳng mối
Ngây thơ em mới biết yêu chàng
Yêu chàng, em cố chuốt h́nh dung
Tô cặp môi son, điểm má hồng
Em thấy xuân nay hoa nở đẹp
Cảm t́nh Thanh đế, tạ đông phong
Vườn t́nh hoa ánh cánh song sa
Rẽ liễu cùng chàng dựa bóng hoa
Hoa tặng vừa tàn bông thược dược
T́m chàng bỗng vắng, bóng chàng xa...
Xuân tàn, hạ cỗi, cảnh thu sầu
Mờ mịt hơi đông ám ngọn lau
Xuân tới cành đào hoa lại nở
Mong chàng mỏi mắt, thấy chàng đâu?
Gió xuân lại thổi chốn vườn xưa
Lệ đẫm khăn là, dạ ngẫn ngơ
Hoa cỏ thương người, xuân ủ bóng
Đâu ngày xuân thắm buổi ngây thơ?
Sầu đối gương loan, bóng lạ người
Chàng không lại nữa, đẹp cùng ai?
Bơ phờ tóc rối, vành khăn lệch
Ủ rũ hoa gầy, má đỏ phai
Phấn mốc, hương bay, chiếu lệch giường
Song thưa, gió ném, cánh hoa tàn
Ba xuân những biếng thăm vườn cũ
Trước cửa rêu dày, lớp cỏ lan
Pḥng không chi tưởng cảnh xuân t́nh
Nhánh liễu phai tơ rụng trước mành
Chợt nghĩ vườn xuân, xuân sắp hết
Gượng vui, khoác áo dạo hoa đ́nh
Xuân hết, đào phai, lư rụng rồi
Hoa đ́nh tịch mịch vẻ xuân phai
Tơi bời ong bướm bay qua ngơ
Những tưởng màu xuân ở xóm ngoài
Xuân buồn như nhắc cảnh xuân vui
Gió thổi lay cành, rụng quả mai
Thương dấu xuân tàn, nghiêng gió hốt
Thương xuân, xuân hỡi, có thương người?
Lệ chan má phấn, ủ mày ngài
Thấm thoát màu xuân có thế thôi
Cảnh cũng như người, chung mối hận
Chàng không lại nữa, đẹp cùng ai?
Nụ hồng rải lối, liễu tơ phai
Vườn cũ rêu lan, cỏ mọc dài
Bên gốc mai già, xuân vắng vẻ
Âu sầu thiếu nữ khóc hoa mai...
|
|
 |
Nguyễn Nhược Pháp ( 1914-1938 )
|
Nguyễn Nhược Pháp sinh tại Hà Nội, là con trai thứ của văn hào Nguyễn Văn
Vĩnh và là em của nhà thơ Nguyễn Giang. Ông theo học trường trung học Albert
Sarraut. Sau khi đậu tú tài ông học luật một thời gian cùng với thi sĩ Phạm Huy
Thông. Ông qua đời tại Hà Nội v́ bệnh thương hàn, hưởng dương 24 tuổi.
Bắt đầu sự nghiệp viết báo, làm thơ, truyện ngắn và kịch năm 18 tuổi, Nguyễn
Nhược Pháp được hai nhà phê b́nh thơ Hoài Thanh, Hoài Chân đánh giá: "Với vài ba
nét đơn sơ, Nguyễn Nhược Pháp đă làm sống lại cả một thời xưa. Thơ ông đậm đà
những nét phong tục xưa, những nếp văn hoá truyền thống được thể hiện qua những
nét tinh tế mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc nhưng không thể thấy dấu tích một
nhà thơ xưa nào." Nguyễn Nhược Pháp thường hay kể chuyện bằng thơ.
Tác phẩm: Ngày Xưa (thi phẩm, Hà Nội 1935), Người Học Vẽ (kịch bản, Hà Nội
1936)
Trong thi phẩm Ngày Xưa có tất cả 10 bài thơ (6 bài thất ngôn và 4 bài ngũ
ngôn), trong đó có hai bài có bối cảnh là mùa xuân, đó là “Chùa Hương” và “Một
Buổi Chiều Xuân” mà chúng ta sẽ cùng thưởng thức sau đây.
Nói đến Nguyễn Nhược Pháp, người ta nghĩ ngay đến “Chùa Hương,” một bài thơ
truyện rất nổi tiếng và trước đây đă được nhạc sĩ Trần Văn Khê phổ thành nhạc.
Nguyễn Nhược Pháp và xuất xứ bài thơ “Chùa Hương” * Bến Đục - chùa Hương
Trong bài thơ “Chùa Hương” chàng thi sĩ 20 tuổi đă thể hiện t́nh cảm của ḿnh
với cô bé 15 tuổi thanh tao đến thánh thiện, đằm thắm mà không uỷ mị, nồng cháy
mà vẫn thanh lịch, trữ t́nh mà tinh tế, cả tâm hồn và hiện thực hoà quyện vào
nhau hài hoà khiến Chùa Hương có vị trí xứng đáng trong thi đàn. Bài thơ “Chùa
Hương” ra đời trong hoàn cảnh rất kỳ thú. Hội Chùa Hương năm 1934, ông cùng nhà
văn Nguyễn Vỹ và hai người bạn nữ sinh Hà thành đi trẩy hội. Đến rừng mơ, hai
văn nhân gặp một bà mẹ cùng cô gái độ tuổi trăng rằm vừa bước lên những bậc đá
vừa niệm phật "Nam mô cứu khổ Quan Thế Âm Bồ Tát.” Vẻ đẹp thánh thiện mang nét
chân quê của cô gái đă hớp hồn hai chàng thi sĩ khiến họ trân trân nh́n quên cả
hai bạn gái cùng đi. Nguyễn Nhược Pháp lại gần hỏi, "Tại sao trông thấy chúng
tôi cô lại không niệm Phật nữa?" Cô gái bối rối, thẹn thùng như muốn khóc. Hai
người bạn gái gọi hai chàng thi sĩ để đi tiếp nhưng họ đă bị hớp hồn, tai đâu
c̣n nghe thấy. Giận dỗi, họ bỏ đi. Lúc bừng tỉnh, hai văn nhân không thấy các cô
đâu vội len thốc len tháo, lách qua những ḍng người đang trẩy hội nhưng t́m đâu
cho thấy. Mệt và ngán ngẩm, hai thi sĩ quay lại t́m cô gái chân quê th́ cả hai
mẹ con cũng đă lẫn vào ḍng người. Đêm đó, Nguyễn Nhược Pháp không sao chợp mắt
được. H́nh ảnh cô gái chân quê đi Chùa Hương khiến ông xúc động viết lên những
vần thơ có sắc màu tươi vui, h́nh ảnh ngộ nghĩnh, cả hồn người lẫn vẻ đẹp của
ngày xưa hiện lên trên từng câu, từng chữ của bài thơ * Suối Yến - chùa Hương “Cô Gái Chùa Hương” khi in vào thi phẩm Ngày Xưa th́ hai chữ “Cô Gái” bị bỏ
đi, chỉ c̣n “Chùa Hương.” Đến nay, bài thơ “Chùa Hương” đă tṛn 72 tuổi, Nguyễn
Nhược Pháp đă qua đời được 68 năm, song “Chùa Hương” cùng tên tuổi nhà thơ
Nguyễn Nhược Pháp vẫn sống măi với thời gian. |
 |
Chùa Hương (Nguyễn Nhược Pháp, 1934)(Thiên kư sự của một cô bé ngày xưa)
Hôm nay đi chùa Hương
Hoa cỏ mờ hơi sương
Cùng thầy me em dậy
Em vấn đầu soi gương
Khăn nhỏ, đuôi gà cao
Em đeo giải yếm đào
Quần lĩnh, áo the mới
Tay cầm nón quai thao
Me cười: "Thầy nó trông!
Chân đi đôi giép cong
Con tôi xinh xinh quá
Bao giờ cô lấy chồng?"
Em tuy mới mười lăm
Mà đă lắm người thăm
Nhờ mối mai đưa tiếng
Khen tươi như trăng rằm
Nhưng em chưa lấy ai
V́ thầy bảo người mai
Rằng em c̣n bé lắm
Ư đợi người tài trai
Em đi cùng với me
Me em ngồi cáng tre
Thầy theo sau cưỡi ngựa
Thắt lưng dài đỏ hoe
Thầy me ra đi đ̣
Thuyền mấp mênh bên bờ
Em nh́n sông nước chẩy
Đưa cánh buồm lô nhô
Mơ xa lại nghĩ gần
Đời mấy kẻ tri âm?
Thuyền nan vừa lẹ bước
Em thấy một văn nhân
Người đâu thanh lạ thường!
Tướng mạo trông phi thường
Lưng cao dài, trán rộng
Hỏi ai nh́n không thương?
Chàng ngồi bên me em
Me hỏi chuyện làm quen:
"Thưa thầy đi chùa ạ?
Thuyền đông, giời ôi, chen!"
Chàng thưa: "Vâng, thuyền đông"
Rồi ngắm giời mênh mông
Xa xa mờ núi biếc
Phơn phớt áng mây hồng
Ḍng sông nước đục lờ
Ngâm nga chàng đọc thơ
Thầy khen: "Hay! Hay quá!"
Em nghe rồi ngẩn ngơ
Thuyền đi, Bến Đục qua
Mỗi lúc gặp người ra
Thẹn thùng em không nói:
"Nam mô A-di-đà!"
|
Réo rắt suối đưa quanh
Ven bờ, ngọn núi xanh
Nhịp cầu xa nho nhỏ
Cảnh đẹp gần như tranh
Sau núi Oản, Gà, Xôi
Bao nhiêu con khỉ ngồi
Tới núi con voi phục
Có đủ cả đầu đuôi
Chùa lấp sau rừng cây
(Thuyền ta đi một ngày)
Lên cửa chùa em thấy
Hơn một trăm ăn mày
Em đi, chàng theo sau
Em không dám đi mau
Ngại chàng chê hấp tấp
Số gian nan không giầu
Thầy me đến điện thờ
Trầm hương khói tỏa mờ
Hương như là sao lạc
Lớp sóng người lô nhô
Chen vào thật lắm công
Thầy me em lễ xong
Quay về nhà ngang bảo:
"Mai mới vào chùa trong"
Chàng hai má đỏ hồng
Kêu với thằng tiểu đồng
Mang túi thơ bầu rượu:
"Mai ta vào chùa trong"
Đêm hôm ấy em mừng
Mùi trầm hương bay lừng
Em nằm nghe tiếng mơ
Rồi chim kêu trong rừng
Em mơ, em yêu đời
Mơ nhiều... Viết thế thôi!
Kẻo ai mà xem thấy
Nh́n em đến nực cười
 
| Em chưa tỉnh giấc nồng
Mây núi đă pha hồng
Thầy me em sắp sửa
Vàng hương vào chùa trong
Đường mây đá cheo veo
Hoa đỏ, tím, vàng leo
V́ thương me quá mệt
Săn sóc chàng đi theo
Me bảo: "Đường c̣n lâu
Cứ vừa đi ta cầu
Quan-Thế-Âm Bồ-tát
Là tha hồ đi mau"
Em ư? Em không cầu
Đường vẫn thấy đi mau
Chàng cũng cho như thế
(Ra ta hợp tâm đầu)
Khi qua chùa Giải-Oan
Trông thấy bức tường ngang
Chàng đưa tay, lẹ bút
Thảo bài thơ liên hoàn
Tấm tắc thầy khen: "Hay!
Chữ đẹp như rồng bay"
(Bài thơ này em nhớ,
Nên chả chép vào đây)
Ôi! Chùa trong đây rồi!
Động thẳm bóng xanh ngời
Gấm thêu trần thạch nhũ
Ngọc nhuốm hương trầm rơi
Me vui mừng hả hê:
"Tặc! Con đường mà ghê!"
Thầy kêu: "Mau lên nhé!
Chiều hôm nay ta về."
Em nghe bỗng rụng rời
Nh́n ai luống nghẹn lời!
Giờ vui đời có vậy
Thoảng ngày vui qua rồi!
Làn gió thổi hây hây
Em nghe tà áo bay
Em t́m hơi chàng thở
Chàng ôi, chàng có hay?
Đường đây kia lên giời
Ta bước tựa vai cười
Yêu nhau, yêu nhau măi!
Đi, ta đi, chàng ôi!
Ngun ngút khói hương vàng
Say trong giấc mơ màng
Em cầu xin Giời, Phật
Sao cho em lấy chàng. |
|
 |
Một Buổi Chiều Xuân (Nguyễn Nhược Pháp, 1933)(Thiên kư sự của một thư sinh đời trước)
Hôm đó buổi chiều xuân
Trông mây hồng bay vân
Liền gập pho kinh sử
Lững thững khỏi lầu văn
Đường leo, nhà lom khom
Mái xanh, tường rêu ṃn
Ta nh́n, ngâm nga đọc
Câu đối cửa mầu son
Phu khiêng kiệu ngẩn ngơ
Thầy lại và thầy thơ
Ngồi xổm cười bên lọng
Trước cửa ṭa dinh cơ
Cương da buộc thân cây,
Vài con ngựa lắc dây
Nghểnh đầu lên gậm lá
Đập chân nghiêng ḿnh xoay
Đi vui rồi vẩn vơ
Hay đâu thức c̣n mơ
Lạc vào trong vườn mộng
Mồm vẫn c̣n ngâm thơ
|
Ô! Vườn bao nhiêu hồng!
Hương nghi ngút đầu bông
Lầu xa tô mái đỏ
Uốn éo hai con rồng
Thoảng tiếng vàng thanh tao
Bên giàn lư bờ ao
Một nàng xinh như liễu
Ngồi ngắm bông hoa đào
Tay cầm bút đề thơ
T́ má hồn vẩn vơ
Nàng ngâm lời thánh thót
Ai không người ngẩn ngơ!
Ta lặng nh́n hơi lâu
Nhưng th́ giờ đi mau
Đứng ngay gần non bộ
Có ông lăo ngồi câu
Nàng chợt nghiêng thân ngà
Thoáng bóng người xa xa
Reo kinh hoàng, e lệ
Đưa rơi cành bút hoa
Ta mơ chưa lại hồn
Nàng lẹ gót lầu son
Vừa toan nh́n nét phượng
Giấy thẹn bay thu tṛn... |
|
|
 |
Lưu Trọng Lư ( 1912-1991 )
|
Lưu Trọng Lư sinh quán ở Bố Trạch, Quảng B́nh; học trường Quốc học Huế đến
năm thứ ba, ra Hà Nội học tư rồi bỏ đi làm sách làm báo. Ông viết giúp cho rất nhiều tờ báo thời đó. Thi phẩm Tiếng Thu của ông được xuất bản năm 1939. Thơ ông
đủ thể loại, từ Đường luật thất ngôn, lục bát, ngũ ngôn, và tự do. Những bài thơ
“Tiếng Thu,” “C̣n Chi Nữa,” và “Một Mùa Đông” trong thi phẩm Tiếng Thu của ông trở nên nổi tiếng hơn khi được nhạc sĩ Phạm Duy phổ thành nhạc. (Riêng bài thơ
“C̣n Chi Nữa” sau khi được phổ nhạc, trở thành bài hát “Hoa Rụng Ven Sông.”)
Kính mời quư vị cùng chúng tôi thưởng thức bài thơ “Xuân Về” trích trong thi
phẩm Tiếng Thu của thi sĩ Lưu Trọng Lư. |
 |
Xuân Về (Lưu Trọng Lư)
Năm vừa rồi
Chàng cùng tôi
Nơi vùng giáp Mộ
Trong gian nhà có
Tôi quay tơ
Chàng ngâm thơ
Vườn sau oanh giục giă
Nh́n ra hoa đua nở
Dừng tay tôi kêu chàng:
“Này, này! Bạn! Xuân Sang!”
Chàng nh́n xuân mặt hớn hở
Tôi nh́n chàng ḷng vồn vă...
Rồi ngày lại ngày
Sắc màu: phai
Lá cành: rụng
Ba gian: trống
Xuân đi
Chàng cũng đi
Năm nay xuân c̣n trở lại
Người xưa không thấy tới.
|
|
|
 |
Đông Hồ ( 1906-1969 ) |
 |
Hồ Dzếnh ( 1916-1991 )
|
Hồ Dzếnh tên thật là Hà Triệu Anh (“Hồ Dzếnh” là phiên âm của “Hà Anh” theo giọng Quảng Đông), sinh quán tại huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa. Cha là người Quảng Đông sang sinh sống ở Việt Nam từ khoảng 1890, mẹ là người Việt. Hồ Dzếnh ra Hà Nội học trung học, dạy tư, viết thơ, viết báo từ năm 1931. Năm 1953 vào Sài G̣n làm báo, năm 1954 trở về Hà Nội viết báo, làm thơ. Ông mất tại Hà Nội.
Tác phẩm tiêu biểu: Các thi phẩm Quê Ngoại (1942), Hoa Xuân Đất Việt (1946), tập truyện ngắn Chân Trời Cũ (1942), và các tiểu thuyết Một Truyện T́nh 15 Năm Về Trước (1942), Những Vành Khăn Trắng (1946). Sự pha trộn của hai gịng máu chi phối nhiều sáng tác của tác giả. Tập thơ Quê Ngoại gây được nhiều ấn tượng nhất với những lời thơ êm đềm, nhẹ nhàng, trong sáng, và những cảm xúc đằm thắm chân thành dành riêng cho "quê ngoại" thân thương. Kính mời quư vị cùng chúng tôi thưởng lăm “Hoa Xuân Đất Việt”, “Xuân Đôi Ta”, “Chiều Xuân Trung Kỳ”, “Xuân Ư”, “Xuân Ở Quê Em” và “Mùa Xuân Mới”
|
 |
Hoa Xuân Đất Việt (Hồ Dzếnh)
Ta biết Ngươi là Hoa Xuân Đất Việt!
Tuổi xanh thắm nhưng ḷng sôi chính huyết,
Tóc bừng bừng nhưng ngút chí non sông,
Ngươi thèm say vũ băo, khát xung phong,
Mơ chinh chiến vỡ tung ḷng tủi cực. Ôi Nam-Việt! Ôi hờn non nước nhục,
Tám mươi năm đau xót, tám mươi năm!...
Một giang sơn lầy lụa dấu thương tâm, Cả thế kỷ vằn đen màu bại liệt!
Niên thiếu hỡi, hỡi hồn trai đất Việt,
Đứng lên đi, v́ tổ quốc vinh quang,
Máu ngươi bồi lên lớp máu lênh lang,
Đời ngươi họa nhịp đời mănh liệt.
Mùa xuân sáng bừng reo trong khí tiết,
Ánh lê minh chói lọi nạm sơn hà,
Ngươi đứng lên, làn mắt đắm phương xa,
Tim rung động, tay lần trang sử đẹp!...
Ngươi phải chết, ngươi cần tha thiết chết,
Trở về chi, hoa bướm rụng từ lâu.
Sau lưng ngươi, rền rĩ vạn mồ đau,
Gót đă trở, đây là giờ đoạn tuyệt!...
Niên thiếu hỡi, hỡi hồn trai đất Việt,
Ta cầu mong một buổi sáng tinh sương,
Nến chập chờn, hoa lạnh suốt âm dương,
Đem cung kính đặt lên mồ chiến sĩ,
Nghe phơi phới khắp năm trời chính khí
Tiếng sơn hà vang nhịp khúc quân ca!
V́ máu thần, ngươi tưới đă lên hoa,
Mùa vinh hạnh kết khung đời rực rỡ!
Ta đứng lặng, mỉm cười trong lệ nhỏ,
Ḷng bâng khuâng thầm vọng bóng ai xa...
Mắt rung rinh ánh đẹp của sơn hà!
|
|
 |
Xuân Đôi Ta (Hồ Dzếnh)
Em trở về đây, đáp lại lời
Anh từng buông gọi giữa xa xôi
Ngh́n trùng non nước đ́u hiu nhớ
Đă vọng hồn anh đến cuối trời
Anh đă chờ và cây đă xanh
Lừng mùa bay dậy tiếng mây thanh
Em về, mắt đẹp ngời như thuở
Em chửa theo chồng, vẫn mến anh Anh đợi chờ em suốt bấy lâu
Nhủ thầm: xuân thắm chả phai đâu
Một khi xuân thắm là mong nhớ
Và cả thiên thu: vĩnh viễn sầu! Áo em sáng dệt trời xuân gấm
Sông cũ, nguồn xưa rộn ră về...
Ngơ hạnh, mấy mùa quên nét thắm
Nở bừng, khi thoáng bóng hoa lê
| Em đă về đây, em vẫn nguyền
Như ngày trăng nước chớm tơ duyên
Bao năm xa cách, đi chưa nhạt
Màu tóc sông thu, ánh mắt huyền
Anh hát mừng em khắp thế gian,
Trập trùng mây núi tiếng ngân vang,
Thơ yêu khôn ngớt trong thiên hạ,
Và cả non sông rợn sóng đàn.
Mời em ngồi lại bến sông xanh,
Mây cũ muôn năm chiếu dáng lành.
Ta viết ḷng ta cho hậu thế,
Đọc hoài không chán: Em và Anh! |
|
 |
Chiều Xuân Trung Kỳ (Hố Dzếnh)
Chiều xuân sang chuyến đ̣ đông
Trai tơ khăn lục, gái hồng thắm môi
Da sông mát dải da trời,
Đây mùa xuân bén trên loài cỏ hoa Hiu hiu... chiều ngả tà tà...
Buồn lên xóm vắng, cây nḥa khói xa Đời em như một lời tranh
Và gần như tiếng bên đ́nh trẻ reo Ngh́n thu hội lại một chiều
Buồn hơn nhớ, nhẹ hơn điều trông mong Có tơ giăng mối hai ḷng
Có muôn quan gió luồn trong một người
| |
 |
Xuân Ư (Hồ Dzếnh)
Trời đẹp như trời mới tráng gương
Chim ca, tiếng sáng rộn ven đường
Có ai bên cửa ngồi hong tóc
Cho chảy lan thành một suối hương... Sắc biếc giao nhau, cành bắt cành
Nước trong, hồ ngợp thủy tinh xanh
Chim bay, cánh trĩu trong xuân ư
Em đợi chờ ai, khuất bức mành? Giữa một giờ thiêng, t́nh rất đẹp
Rất buồn và rất... rất thanh thanh
Mày ai bán nguyệt, người ai nhỏ?
Em ạ! Yêu nhau, chết cũng đành
|
|
 |
Xuân Ở Quê Em (Hồ Dzếnh)
Hai con ngựa trắng Ăn cỏ đồng xanh
Hương gió thanh thanh
Vang lừng ca ngợi
Xuân vừa chớm tuổi
Bướm đến quen hoa
Em nhỏ hơn ta
T́nh như áo mới
Hôm nay ngày cuối
Của đôi chim khuyên
Hôm nay mùa duyên
Của đôi ḷng nhỏ
Tôi về lấy vợ
Người ở bên sông
Mắt đẹp môi hồng
Ḷng như hoa nở
Hai mùa gặp gỡ
Chim nhỏ lên cây
Tôi chắp hai tay
Xin trời thắm măi... |
|
 |
Mùa Xuân Mới (Hồ Dzếnh)
Non sông đương lúc bừng bừng dậy,
Khí vũ hiên ngang dồn mọi ḷng...
Bút hỡi, thiêng liêng, người hăy cháy,
Kiếm thần kia ánh lên từng không.
Ta đứng nơi đây nguyện một lời:
"Non kia dù lở, băi kia bồi,
Đất thiêng không để dành hai giống,
Linh khí trời Nam đúc một ṇi."
Đây, nửa đời đau thấy dáng xuân,
Đất hoa thở mạnh, gió thơm gần,
Ta quàng tay nhỏ gh́ non nước,
Như gă si t́nh say ái ân!
Người hăy cùng ta dạo cảnh xuân,
Yêu nhau cho bơ lúc phong trần.
Nhịp đi lên mạnh, hồn ta đẹp,
Thơ ư rung mùa vang dưới chân. | |
|
 |
Xuân Diệu
( 1916-1985 )
|
Ngô Xuân Diệu sinh quán tại Tuy Phước, tỉnh B́nh Định cũ, học ở Hà Nội, tốt nghiệp kỹ sư canh nông năm 1943.
Xuân Diệu viết nhiều, có khoảng 450 bài thơ. Một số lớn chưa được xuất bản. Tác phẩm tiêu biểu: Các thi phẩm Thơ Thơ (1938), Gửi Hương Cho Gió (1945), Ngọn Quốc Kỳ (1945); truyện ngắn Phấn Thông Vàng (1939). Xuân Diệu là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ Mới. Ông mang ngọn gió rạo rực, thiết tha, nồng cháy, khao khát yêu thương đến cho thi ca. MờI quư vị cùng chúng tôi thưởng thức bài thơ “Xuân Đầu” của thi sĩ Xuân Diệu.
|
 |
Xuân Đầu (Xuân Diệu)
|
Trời xanh thế! Hàng cây thơ biết mấy!
Vườn non sao! Đường cỏ mộng bao nhiêu
Khi Phạm Thái gặp Quỳnh Như thuở ấy
Khi chàng Kim vừa được thấy nàng Kiều Hỡi nǎm tháng vội đi làm quá khứ!
Trời về đây! Và đem trở về đây
Rượu nơi mắt với khi nh́n ướm thử
Gấm trong ḷng và khi đứng chờ ngây Và nhạc phất dưới chân mừng sánh bước
Và tơ giǎng trong lời nhỏ khơi ng̣i
Tà áo mới cũng say mùi gió nước
Rặng mi dài xao động ánh dương vui Thiêng liêng quá, những chiều không dám nói
Những tay e, những đầu ngượng cúi mau
Chim giữa nắng sao mà kêu đến chói!
Ôi vô cùng trong một phút nh́n nhau!
| | | | |